Đó là sự kết hợp mà New Jersey muốn bắt chước. New Jersey khi đó đã là một trung tâm công nghệ cao nổi tiếng – nơi đặt phòng thí nghiệm của 725 công ty, bao gồm RCA, Merck và Bell Labs. Lực lượng lao động kỹ sư và khoa học lên tới 50.000. Tuy nhiên, do chưa có đại học kỹ thuật nổi bật nào trong khu vực, các doanh nghiệp phải tuyển dụng từ nơi khác. Họ cũng lo sợ bị chảy máu chất xám cũng như công nghệ tốt nhất sang “hàng xóm”.
Những người đứng đầu chính phủ và tập đoàn tại New Jersey – dẫn đầu bởi Bell Labs – quyết định giải pháp là xây dựng một trường tương tự Stanford. Họ hi vọng ông Terman sẽ làm điều đó.
Ông Terman đưa ra dự thảo nhưng chưa bao giờ thành công, phần lớn vì không có sự hợp tác trong ngành. Giai đoạn này được ghi lại trong báo cáo “Selling Silicon Valley” năm 1996 của hai tác giả Stuart W. Leslie và Robert H. Kargon. Họ kể lại RCA không muốn ký thỏa thuận với Bell Labs, Esso không muốn chia sẻ những chuyên gia nghiên cứu tốt nhất với một trường đại học, còn Merck và các hãng dược khác muốn duy trì nghiên cứu nội bộ. Bất chấp có chung một nhu cầu, họ không sẵn lòng bắt tay với đối thủ.
Sau đó, ông Terman thử nghiệm lần nữa tại Dallas nhưng vẫn thất bại với lý do tương tự.
Năm 1990, Giáo sư Michael Porter của Đại học Kinh doanh Harvard đề xuất phương pháp mới nhằm tạo ra các trung tâm đổi mới vùng, lần này xoanh quanh một đại học nghiên cứu có sẵn. Ông nhận thấy sự tập trung về mặt địa lý của các công ty và nhà cung ứng chuyên biệt mang lại lợi thế chi phí và năng suất nhất định. Ông đồng ý rằng tập hợp những nguyên liệu này với nhau, các khu vực có thể thúc đẩy đổi mới.
Ông Porter và các chuyên gia theo phương pháp luận của ông đưa ra công thức giống nhau cho chính phủ khắp thế giới. Đó là lựa chọn một ngành công nghiệp “nóng”, xây dựng một công viên khoa học bên cạnh một trường đại học chuyên về nghiên cứu, cung cấp tài trợ cho các ngành công nghiệp được lựa chọn để đặt tại đây và tạo ra một nhóm đầu tư mạo hiểm.
Đáng buồn là điều kỳ diệu không bao giờ xảy ra. Hàng trăm khu vực toàn cầu chi hàng chục tỷ USD để xây dựng phiên bản Silicon Valley của riêng mình nhưng chưa có ai thành công.
Gốc rễ thành công của Thung lũng Silicon
Điều ông Porter và ông Terman không nhận ra là Silicon Valley không hình thành bởi học thuật, ngành công nghiệp hay thậm chí nguồn vốn của chính phủ Mỹ. Thung lũng Silicon là tác phẩm của con người và các mối quan hệ mà ông Terman nuôi dưỡng cẩn thận giữa các khoa trong trường Stanford và các lãnh đạo ngành.
Giáo sư AnnaLee Saxenian của Đại học California hiểu được tầm quan trọng của con người, văn hóa và sự kết nối. Cuốn sách “Regional Advantage: Culture and Competition in Silicon Valley” năm 1994 của bà so sánh sự phát triển của Silicon Valley với Đường 128 bao quanh Boston để giải thích vì sao không khu vực nào có thể lặp lại thành câu chuyện thành công của thung lũng.
Bà Saxenia lưu ý cho đến thập niên 70, Boston vẫn vượt xa Silicon Valley về hoạt động khởi nghiệp và đầu tư mạo hiểm. Nó có lợi thế khổng lồ vì gần với các trung tâm công nghiệp bờ Đông. Đến thập niên 80, Thung lũng Silicon và Đường 128 tương đối giống nhau: đều bao gồm cả doanh nghiệp lớn và nhỏ, các đại học đẳng cấp thế giới, các nhà đầu tư mạo hiểm, nguồn vốn quân sự. Sau này, Silicon Valley vượt qua và bỏ xa Đường 128.
Gốc rễ của vấn đề chính là văn hóa. Đó là tỷ lệ nhảy việc và thành lập công ty cao tại Silicon Valley, mạng lưới chuyên gia và trao đổi thông tin dễ dàng. Các doanh nghiệp tại thung lũng hiểu rằng vừa hợp tác vừa cạnh tranh dẫn đến thành công. Hệ sinh thái tại đây ủng hộ các thử nghiệm, chấp nhận rùi ro và chia sẻ bài học thành công, thất bại. Nói cách khác, Silicon Valley là một hệ sinh thái mở, một mạng xã hội đời thực rộng lớn, tồn tại rất lâu trước khi Facebook ra đời.
Chưa kể, Thung lũng Silicon còn có khí hậu tuyệt vời, gần núi, đại dương, vô số đường mòn đi bộ trong công viên quốc gia. Những điều này góp phần nuôi dưỡng nền văn hóa lạc quan và cởi mở.
Cần lưu ý rằng từ năm 1995 đến 2005, 52,4% startup khoa học – công nghệ tại Silicon Valley do một hoặc hơn một người không sinh tại Mỹ sáng lập. Tỉ lệ cao gấp đôi so với cả nước. Những người nhập cư đến Thung lũng Silicon cảm thấy dễ thích nghi và hòa nhập. Họ có thể học các quy tắc gắn kết, tạo ra mạng lưới riêng và tham gia một cách bình đẳng. Trụ sở của các công ty như Google giống như Liên Hợp Quốc vậy. Những quầy ăn không chỉ phục vụ xúc xích mà còn cả đồ ăn Trung Quốc, Mexico hay Ấn Độ.
Chính sự đa dạng đó dẫn dắt tiến bộ. Sự hiểu biết về thị trường toàn cầu mà người nhập cư mang lại, kiến thức họ có về các lĩnh vực khác nhau, các liên kết mà họ cung cấp cho quê nhà… đã mang đến cho thung lũng một lợi thế cạnh tranh khổng lồ. Từ sản xuất chip máy tính, radio, Silicon Valley tạo ra công cụ tìm kiếm, mạng xã hội, thiết bị y tế và công nghệ năng lượng sạch.
Tất nhiên, Silicon Valley không hoàn hảo. Chẳng hạn, phụ nữ và nhóm người thiểu số thường vắng mặt trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp. Các nhà đầu tư mạo hiểm có tâm lý bầy đàn, phần lớn tài trợ cho các startup tạo ra kết quả ngắn hạn, dẫn tới sự bùng nổ của các ứng dụng chia sẻ hình ảnh và mạng xã hội. Giá bất động sản cao tới mức hầu hết người Mỹ không có khả năng chuyển tới đây.
Những nhược điểm đó làm chậm tiến trình phát triển của Silicon Valley song không khiến nó dừng lại. Thung lũng Silicon cũng có các đối thủ như New Delhi (Ấn Độ) hay Thượng Hải (Trung Quốc). Dù vậy, sẽ không có một Silicon Valley nào khác trên thế giới vì tất cả những lý do kể trên.
Du Lam
Cựu CEO Google Eric Schmidt cho rằng sự chần chừ của chính phủ Mỹ đã khiến nước này đi sau Trung Quốc khá xa trong cuộc đua 5G.
" alt=""/>Không thể ‘sao chép’ Thung lũng Silicon![]() |
Một số tin nhắn đòi nợ đã được người dân phản ánh về hệ thống 5656 của Cục An toàn thông tin. |
Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam (VNCERT/CC) thuộc Cục An toàn thông tin, Bộ TT&TT cho biết, chỉ trong tháng 1/2022, hệ thống tiếp nhận phản ánh tin nhắn rác, cuộc gọi rác qua tổng đài 5656 của Cục An toàn thông tin đã tiếp nhận hơn 13.000 phản ánh của người dân về việc bị làm phiền bởi tin nhắn rác, cuộc gọi rác.
Đáng chú ý, Trung tâm VNCERT/CC đã ghi nhận nhiều phản ánh của người dân về việc nhận được tin nhắn, cuộc gọi đe dọa, đòi nợ làm phiền dù không liên quan.
Nhấn mạnh nhắn tin đe dọa đòi nợ là hành vi vi phạm pháp luật, đại diện Trung tâm VNCERT/CC cho hay, theo khoản 1a của Điều 156 Bộ luật Hình sự quy định về tội vu khống, người nào thực hiện hành vi bịa đặt hoặc lan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
Còn theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự về tội đe dọa giết người, người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Trung tâm VNCERT/CC khuyến nghị người dân ngay khi nhận được các cuộc gọi, tin nhắn đe dọa đòi nợ dù không liên quan, người dân nên thực hiện ngay một số các biện pháp sau để hạn chế bị làm phiền. Đó là: kiểm tra thông tin cá nhân của thuê bao đang sử dụng, đảm bảo thuê bao sử dụng được đăng ký chính chủ; Liên hệ với bộ phận chăm sóc khách hàng của ngân hàng hoặc cơ quan tín dụng để khiếu nại, yêu cầu hỗ trợ.
Trong trường hợp vẫn tiếp tục bị đe dọa, người dân nên khai báo ngay với cơ quan công an địa phương để xử lý đối tượng vi phạm theo quy định. Ngoài ra, người dân có thể liên hệ với Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước để đề nghị xem xét xử lý những dấu hiệu vi phạm liên quan đến công tác đôn đốc, thu hồi nợ.
Vân Anh
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 91 thay thế Nghị định số 90/2008/NĐ-CP và Nghị định số 77/2012/NĐ-CP về chống tin nhắn rác, thư điện tử rác, cuộc gọi rác đang gây bức xúc cho người dân hiện nay.
" alt=""/>Người dân cần làm gì khi nhận được tin nhắn, cuộc gọi quấy rối đòi nợ?Học theo Nhật?
TS Nguyễn Đức Hoạt, nguyên chủ nhiệm khoa Tiếng Anh Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội chia sẻ về Khung tham chiếu chung châu Âu về ngôn ngữ (CEFR) cho đào tạo tiếng Anh tại Việt Nam.
Theo ông Hoạt, CEFR là hệ thống chuẩn sử dụng ngôn ngữ được thiết kế khoa học, có hệ thống nhằm tạo điều kiện thống nhất chuẩn đào tạo, công nhận lẫn nhau về bằng cấp, chứng chỉ ngoại ngữ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển tự do nguồn nhân lực trong EU và phát triển môi trường đa văn hóa, đa ngôn ngữ.
Tuy nhiên để hiện thực hóa đề án này, TS Hoạt cho rằng cần phải có cách tiếp cận hệ thống, đồng bộ và có các bước đi phù hợp với điều kiện riêng về nhu cầu, mức độ sử dụng ngoại ngữ của từng đối tượng đào tạo ở Việt Nam.
![]() |
TS Nguyễn Đức Hoạt (Ảnh: Văn Chung) |
Cần xây dựng chuẩn CEFR-V(phiên bản Việt Nam) như phiên bảnCEFR – Jcủa Nhật để phù hợp với khả năng, điều kiện sử dụng cụ thể của quốc gia song vẫn bảo đảm gắn kết, không phá vỡ tính hệ thống củaCEFR.
Dự án xây dựng chuẩn CEFR-Japan bắt đầu khởi động từ năm 2008 đến nay mới hoàn thành 4 khâu: Tập hợp đặc tả chuẩn(Descriptors – Bản CEFR-J Alpha, viết lại các đặc tả cho phù hợp (đặc biệt đối tượng học sinh phổ thông) trên cơ sở khảo sát giáo viên và ý kiến góp ý của các chuyên gia – Hoàn thiện bản Beta CEFR-J – Thử nghiệm và đánh giá thực tế tại trường học – Bản CEFR version 1. Hiện nay họ đang tiến hành báo cáo tổng kết để triển khai.
Ngoài việc viết lại chuẩn đầu ra, Nhật Bản còn bổ sung, chia nhỏ hơn nữa 6 bậc châu Âu thành 12 bậc chứ không áp dụng y nguyên như Việt Nam.
Việc áp dụng chuẩn CEFR sẽ giúp hoạt động giáo dục ngoại ngữ Việt Nam theo hướng hội nhập phù hợp với chuẩn năng lực quốc tế. Tuy nhiên việc dạy và học ngoại ngữ ở các cấp nhất định phải gắn với năng lực, điều kiện dạy và học cũng như nhu cầu sử dụng ngoại ngữ của người Việt ở cả trong nước lẫn trong môi trường làm việc nước ngoài….
Bộ GD-ĐT đang làm gì?
TS Vũ Thị Tú Anh - phó Trưởng Ban thường trực Ban quản lý Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020 cho biết: Tháng 1/2014, Bộ GD-ĐT đã ban hành khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho VN.
"Chúng tôi đang xây dựng khung ngoại ngữ 6 bậc của người Việt Nam dựa trên kinh nghiệm quốc tế. Khung tham chiếu châu Âu là khung tham chiếu phổ biến nhất hiện nay, được phổ biến trên 135 nước trên thế giới" - bà Tú Anh nói.
![]() |
TS Vũ Thị Tú Anh (Ảnh: Văn Chung) |
Khung này không bắt buộc, chỉ mang tính chất để định hướng nhà làm chương trình xây dựng chương trình ban đầu, các nhà quản lí và chuyên môn tiếp tục soạn thảo chương trình bồi dưỡng chuyên môn định kỳ cho các giáo viên ngoại ngữ các môn.
Trên cơ sở đó, đã định nghĩa các công cụ đo quốc tế như TOEFL, iELTS, HSK,… các công cụ đo này dựa trên khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của VN. Khung này sẽ tiếp tục được cập nhật trong quá trình sử dụng để phù hợp đối tượng người Việt học ngoại ngữ.
Báo cáo thêm về đề án, bà Tú Anh cho biết Bộ GD-ĐT đang rất quan tâm công tác đào tạo ban đầu. Mỗi năm VN đưa vào trong nước khoảng 3.000 cử nhân tiếng Anh để bổ sung vào 100.000 giáo viên tiếng Anh.
"Với định chuẩn mới là B2 hay bậc 4, C1 hay là bậc 5 thì cũng cần quá trình lâu dài, 100.000 giáo viên mới đạt được. Hồng Kông làm nhiều năm nhưng mới có 57% giáo viên trung học đạt chuẩn bậc 5, 37% giáo viên tiểu học đạt chuẩn bậc 4. Italia làm trước VN 13 năm, đến giờ vẫn chưa đạt 50% đạt định chuẩn" - bà Tú Anh cho biết.